90 năm ĐCS Việt Nam: Đảng lãnh đạo cả nước trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược (1965 – 1973)

  • Trong hơn 4 năm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ (5/8/1964 - 1/11/1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi, bắn cháy 3.234 máy bay; trong đó có 6 máy bay B.52; diệt và bắt nhiều phi công. Trong ảnh: Đại uý Gadem Willart Selleck, phi công máy bay F.105 bị bắn hạ tại thôn Sen Hồ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang ngày 7/8/1966. Ảnh: Văn Bảo - TTXVN
    Trong hơn 4 năm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ (5/8/1964 - 1/11/1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi, bắn cháy 3.234 máy bay; trong đó có 6 máy bay B.52; diệt và bắt nhiều phi công. Trong ảnh: Đại uý Gadem Willart Selleck, phi công máy bay F.105 bị bắn hạ tại thôn Sen Hồ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang ngày 7/8/1966. Ảnh: Văn Bảo - TTXVN
  • Tháng 1/1968, tại Hội nghị BCH TƯ Ðảng lần thứ 14 đã thông qua Nghị quyết tháng 12/1967 của Bộ Chính trị, quyết định thực hiện tổng công kích - tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy chiến lược Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam đã đạt được mục tiêu chiến lược cực kỳ quan trọng của Đảng đề ra. Trong ảnh: Bác Hồ cùng Bộ Chính trị họp bàn mở Chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968. Ảnh: TTXVN
    Tháng 1/1968, tại Hội nghị BCH TƯ Ðảng lần thứ 14 đã thông qua Nghị quyết tháng 12/1967 của Bộ Chính trị, quyết định thực hiện tổng công kích - tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy chiến lược Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam đã đạt được mục tiêu chiến lược cực kỳ quan trọng của Đảng đề ra. Trong ảnh: Bác Hồ cùng Bộ Chính trị họp bàn mở Chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968. Ảnh: TTXVN
  • Trong ảnh: Thực hiện chủ trương của Đảng bộ Sài Gòn – Gia Định, trong năm 1973, các tầng lớp nhân dân Sài Gòn – Gia Định đẩy mạnh biểu tình đấu tranh chống chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đòi thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
    Trong ảnh: Thực hiện chủ trương của Đảng bộ Sài Gòn – Gia Định, trong năm 1973, các tầng lớp nhân dân Sài Gòn – Gia Định đẩy mạnh biểu tình đấu tranh chống chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đòi thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
  • Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973) là sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, căn bản hoàn thành nhiệm vụ “đánh cho Mỹ cút”, tạo thế và lực tiến tới cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước mùa Xuân năm 1975. Trong ảnh: Thi hành hiệp định Paris, ngày 29/3/1973, những người lính Mỹ cuối cùng lên máy bay tại sân bay Đà Nẵng để rút khỏi Việt Nam dưới sự giám sát của Tổ Quốc tế và Tổ Liên hợp Quân sự 4 bên. Ảnh: Tư liệu TTXVN
    Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973) là sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, căn bản hoàn thành nhiệm vụ “đánh cho Mỹ cút”, tạo thế và lực tiến tới cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước mùa Xuân năm 1975. Trong ảnh: Thi hành hiệp định Paris, ngày 29/3/1973, những người lính Mỹ cuối cùng lên máy bay tại sân bay Đà Nẵng để rút khỏi Việt Nam dưới sự giám sát của Tổ Quốc tế và Tổ Liên hợp Quân sự 4 bên. Ảnh: Tư liệu TTXVN
  • Ngày 27/1/1973, trải qua 4 năm 9 tháng đàm phán với 202 phiên họp công khai và 24 cuộc tiếp xúc riêng, Hội nghị Paris về Việt Nam kết thúc thắng lợi. Vào lúc 11 giờ 30 (giờ Paris), các Bộ trưởng Ngoại giao thay mặt cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Chính phủ Mỹ và Chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã chính thức ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ, đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt bút ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ảnh: Tư liệu/TTXVN
    Ngày 27/1/1973, trải qua 4 năm 9 tháng đàm phán với 202 phiên họp công khai và 24 cuộc tiếp xúc riêng, Hội nghị Paris về Việt Nam kết thúc thắng lợi. Vào lúc 11 giờ 30 (giờ Paris), các Bộ trưởng Ngoại giao thay mặt cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Chính phủ Mỹ và Chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã chính thức ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ, đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt bút ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ảnh: Tư liệu/TTXVN
  • Ngày 27/1/1973, trải qua 4 năm 9 tháng đàm phán với 202 phiên họp công khai và 24 cuộc tiếp xúc riêng, Hội nghị Paris về Việt Nam kết thúc thắng lợi. Vào lúc 11 giờ 30 (giờ Paris), các Bộ trưởng Ngoại giao thay mặt cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Chính phủ Mỹ và Chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã chính thức ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Bà Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đặt bút ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ảnh: Tư liệu/TTXVN
    Ngày 27/1/1973, trải qua 4 năm 9 tháng đàm phán với 202 phiên họp công khai và 24 cuộc tiếp xúc riêng, Hội nghị Paris về Việt Nam kết thúc thắng lợi. Vào lúc 11 giờ 30 (giờ Paris), các Bộ trưởng Ngoại giao thay mặt cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Chính phủ Mỹ và Chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã chính thức ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Bà Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đặt bút ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ảnh: Tư liệu/TTXVN
  • Ngày 27/1/1973, trải qua 4 năm 9 tháng đàm phán với 202 phiên họp công khai và 24 cuộc tiếp xúc riêng, Hội nghị Paris về Việt Nam kết thúc thắng lợi. Vào lúc 11 giờ 30 (giờ Paris), các Bộ trưởng Ngoại giao thay mặt cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Chính phủ Mỹ và Chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã chính thức ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Quang cảnh Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình  ở Việt Nam. Ảnh: Tư liệu TTXVN
    Ngày 27/1/1973, trải qua 4 năm 9 tháng đàm phán với 202 phiên họp công khai và 24 cuộc tiếp xúc riêng, Hội nghị Paris về Việt Nam kết thúc thắng lợi. Vào lúc 11 giờ 30 (giờ Paris), các Bộ trưởng Ngoại giao thay mặt cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Chính phủ Mỹ và Chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã chính thức ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Quang cảnh Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ảnh: Tư liệu TTXVN
  • Ngày 27/1/1973, trải qua 4 năm 9 tháng đàm phán với 202 phiên họp công khai và 24 cuộc tiếp xúc riêng, Hội nghị Paris về Việt Nam kết thúc thắng lợi. Vào lúc 11 giờ 30 (giờ Paris), các Bộ trưởng Ngoại giao thay mặt cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Chính phủ Mỹ và Chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã chính thức ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Quang cảnh lễ ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973, tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế ở thủ đô Paris (Pháp). Ảnh: Văn Lượng - TTXVN
    Ngày 27/1/1973, trải qua 4 năm 9 tháng đàm phán với 202 phiên họp công khai và 24 cuộc tiếp xúc riêng, Hội nghị Paris về Việt Nam kết thúc thắng lợi. Vào lúc 11 giờ 30 (giờ Paris), các Bộ trưởng Ngoại giao thay mặt cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Chính phủ Mỹ và Chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã chính thức ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Quang cảnh lễ ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973, tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế ở thủ đô Paris (Pháp). Ảnh: Văn Lượng - TTXVN
  • Trong thời gian chiến tranh chống Mỹ, cầu Long Biên là trọng điểm đánh phá của không lực Hoa Kỳ, là nơi hứng nhiều bom đạn nhất ở Hà Nội. Cầu đã nhiều lần bị trúng bom và có những nhịp cầu đã chìm sâu dưới đáy sông. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cầu đã chịu đựng 14 lần bị không quân Mỹ phóng bom lazer, phá 1.500m cầu, làm sập 9 nhịp, 4 trụ bị hỏng. Trong ảnh: Khôi phục cầu Long Biên bị bom Mỹ đánh hư hại năm 1972. Ảnh: Tư liệu/TTXVN
    Trong thời gian chiến tranh chống Mỹ, cầu Long Biên là trọng điểm đánh phá của không lực Hoa Kỳ, là nơi hứng nhiều bom đạn nhất ở Hà Nội. Cầu đã nhiều lần bị trúng bom và có những nhịp cầu đã chìm sâu dưới đáy sông. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cầu đã chịu đựng 14 lần bị không quân Mỹ phóng bom lazer, phá 1.500m cầu, làm sập 9 nhịp, 4 trụ bị hỏng. Trong ảnh: Khôi phục cầu Long Biên bị bom Mỹ đánh hư hại năm 1972. Ảnh: Tư liệu/TTXVN
  • Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, miền Bắc có nhiệm vụ vừa chiến đấu, vừa sản xuất; vừa giữ vững sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa làm tròn vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Trong ảnh: Tàu chở khách khởi hành từ Hà Nội mang số hiệu 131-426 chạy qua cầu Việt Trì trong lễ khánh thành (28/3/1973). Ảnh: Trần Sơn – TTXVN
    Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, miền Bắc có nhiệm vụ vừa chiến đấu, vừa sản xuất; vừa giữ vững sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa làm tròn vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Trong ảnh: Tàu chở khách khởi hành từ Hà Nội mang số hiệu 131-426 chạy qua cầu Việt Trì trong lễ khánh thành (28/3/1973). Ảnh: Trần Sơn – TTXVN
  • Trong ảnh: Nhà máy dệt Nam Định tiếp tục được khôi phục và phát triển trong những năm xây dựng CNXH ở miền Bắc. Nhiều công nhân của Nhà máy Dệt Nam Định từng được phong danh hiệu “đôi bàn tay vàng”, Anh hùng Lao động. Ảnh: Trần Phác – TTXVN
    Trong ảnh: Nhà máy dệt Nam Định tiếp tục được khôi phục và phát triển trong những năm xây dựng CNXH ở miền Bắc. Nhiều công nhân của Nhà máy Dệt Nam Định từng được phong danh hiệu “đôi bàn tay vàng”, Anh hùng Lao động. Ảnh: Trần Phác – TTXVN
  • Dưới sự lãnh đạo của Đảng và tinh thần dũng cảm, quyết tâm chiến đấu, quân và dân ta đã đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay ném bom B52 của Mỹ trong 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972, làm nên Chiến thắng
    Dưới sự lãnh đạo của Đảng và tinh thần dũng cảm, quyết tâm chiến đấu, quân và dân ta đã đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay ném bom B52 của Mỹ trong 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972, làm nên Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" mang tính quyết định, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Lực lượng pháo phòng không nổ súng quyết liệt đánh trả máy bay Mỹ, bảo vệ Hà Nội trong 12 ngày đêm tháng 12/1972. Ảnh: TTXVN
  • Trong ảnh: Bộ đội Tên lửa - lực lượng chủ lực trong  chiến dịch phòng không bảo vệ Thủ đô 12 ngày đêm tháng 12/1972, góp phần làm nên Chiến thắng
    Trong ảnh: Bộ đội Tên lửa - lực lượng chủ lực trong chiến dịch phòng không bảo vệ Thủ đô 12 ngày đêm tháng 12/1972, góp phần làm nên Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không", buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ảnh: TTXVN
  • Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ (từ 6/4/1972 - 15/1/1973), quân và dân miền Bắc bắn rơi 735 máy bay, trong đó có 61 máy bay B52, 10 máy bay F111, bắn cháy và bắn bị thương 125 tàu chiến và tàu biệt kích; diệt và bắt hàng trăm giặc lái. Trong ảnh: Bộ đội Tên lửa lập nên nhiều chiến công xuất sắc, bắn rơi nhiều máy bay B52. Ảnh: TTXVN
    Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ (từ 6/4/1972 - 15/1/1973), quân và dân miền Bắc bắn rơi 735 máy bay, trong đó có 61 máy bay B52, 10 máy bay F111, bắn cháy và bắn bị thương 125 tàu chiến và tàu biệt kích; diệt và bắt hàng trăm giặc lái. Trong ảnh: Bộ đội Tên lửa lập nên nhiều chiến công xuất sắc, bắn rơi nhiều máy bay B52. Ảnh: TTXVN
  • Trong 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972, quân và dân ta, với tinh thần chiến đấu dũng cảm và mưu trí, đã lập nên Chiến thắng
    Trong 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972, quân và dân ta, với tinh thần chiến đấu dũng cảm và mưu trí, đã lập nên Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không", đập tan hoàn toàn cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B52 của Mỹ, bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 máy bay B52 và 5 chiếc máy bay F111; diệt và bắt nhiều phi công. Trong ảnh: Phi công Mỹ bị bắt sống bên xác máy bay. Ảnh: TTXVN
  • Dưới sự lãnh đạo của Đảng và tinh thần dũng cảm, mưu trí, quyết tâm chiến đấu, quân và dân ta đã đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay ném bom B52 của Mỹ trong 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972, làm nên Chiến thắng
    Dưới sự lãnh đạo của Đảng và tinh thần dũng cảm, mưu trí, quyết tâm chiến đấu, quân và dân ta đã đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay ném bom B52 của Mỹ trong 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972, làm nên Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" mang tính quyết định, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Xác máy bay B52 Mỹ bị bắn rơi rên đường phố Thủ đô. Ảnh: TTXVN
  • Trong ảnh: Lực lượng pháo phòng không giáng trả đích đáng máy bay Mỹ trong chiến dịch phòng không bảo vệ Thủ đô 12 ngày đêm tháng 12/1972, góp phần làm nên Chiến thắng
    Trong ảnh: Lực lượng pháo phòng không giáng trả đích đáng máy bay Mỹ trong chiến dịch phòng không bảo vệ Thủ đô 12 ngày đêm tháng 12/1972, góp phần làm nên Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không", buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ảnh: TTXVN
  • Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ (từ 6/4/1972 - 15/1/1973), quân và dân miền Bắc bắn rơi 735 máy bay, trong đó có 61 máy bay B52, 10 máy bay F111, bắn cháy và bắn bị thương 125 tàu chiến và tàu biệt kích; diệt và bắt hàng trăm giặc lái. Trong ảnh: Bộ đội Tên lửa lập nên nhiều chiến công xuất sắc, bắn rơi nhiều máy bay B52. Ảnh: TTXVN
    Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ (từ 6/4/1972 - 15/1/1973), quân và dân miền Bắc bắn rơi 735 máy bay, trong đó có 61 máy bay B52, 10 máy bay F111, bắn cháy và bắn bị thương 125 tàu chiến và tàu biệt kích; diệt và bắt hàng trăm giặc lái. Trong ảnh: Bộ đội Tên lửa lập nên nhiều chiến công xuất sắc, bắn rơi nhiều máy bay B52. Ảnh: TTXVN
  • Trong ảnh: Bộ đội Tên lửa - lực lượng chủ lực trong  chiến dịch phòng không bảo vệ Thủ đô 12 ngày đêm tháng 12/1972, góp phần làm nên Chiến thắng
    Trong ảnh: Bộ đội Tên lửa - lực lượng chủ lực trong chiến dịch phòng không bảo vệ Thủ đô 12 ngày đêm tháng 12/1972, góp phần làm nên Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không", buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ảnh: TTXVN
  • Nhà máy Thủy điện Thác Bà được khởi công xây dựng ngày 19/8/1964, đến ngày 5/10/1971 khởi động tổ máy số 1 và hòa vào lưới điện quốc gia; sau đó lần lượt các tổ máy số 2 đưa vào vận hành ngày 10/3/1972 và tổ máy số 3 vào ngày 19/5/1972. Thuỷ điện Thác Bà ban đầu có công suất lắp đặt 108 MW với 3 tổ máy, mỗi tổ máy 36MW. Năm 1978, Nhà máy được nâng cấp công suất lên thành 120MW. Trong ảnh: Công trình xây dựng nhà máy thủy điện Thác Bà giai đoạn sắp khánh thành, tháng 9/1971. Ảnh: Vũ Hanh - TTXVN
    Nhà máy Thủy điện Thác Bà được khởi công xây dựng ngày 19/8/1964, đến ngày 5/10/1971 khởi động tổ máy số 1 và hòa vào lưới điện quốc gia; sau đó lần lượt các tổ máy số 2 đưa vào vận hành ngày 10/3/1972 và tổ máy số 3 vào ngày 19/5/1972. Thuỷ điện Thác Bà ban đầu có công suất lắp đặt 108 MW với 3 tổ máy, mỗi tổ máy 36MW. Năm 1978, Nhà máy được nâng cấp công suất lên thành 120MW. Trong ảnh: Công trình xây dựng nhà máy thủy điện Thác Bà giai đoạn sắp khánh thành, tháng 9/1971. Ảnh: Vũ Hanh - TTXVN
  • Ngày 8/3/1960, Nhà máy dệt 8-3 được khởi công xây dựng và khánh thành ngày 8/3/1965. Liên tiếp trong nhiều năm, Nhà máy luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch, góp phần to lớn vào sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân. Trong ảnh: Nữ công nhân Nhà máy dệt 8/3 quản lý tốt sản lượng, đảm bảo chất lượng sản phẩm và ngày công, luôn hoàn thành các chỉ tiêu Nhà nước giao (tháng 1/1971). Ảnh: Trần Phác – TTXVN
    Ngày 8/3/1960, Nhà máy dệt 8-3 được khởi công xây dựng và khánh thành ngày 8/3/1965. Liên tiếp trong nhiều năm, Nhà máy luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch, góp phần to lớn vào sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân. Trong ảnh: Nữ công nhân Nhà máy dệt 8/3 quản lý tốt sản lượng, đảm bảo chất lượng sản phẩm và ngày công, luôn hoàn thành các chỉ tiêu Nhà nước giao (tháng 1/1971). Ảnh: Trần Phác – TTXVN
  • Giai đoạn này, miền Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Trong ảnh: Xã viên Hợp tác xã Mễ Trì Thượng, huyện Từ Liêm (ngoại thành Hà Nội) tích cực tăng gia sản xuất (năm 1970). Ảnh: Văn Bảo - TTXVN
    Giai đoạn này, miền Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Trong ảnh: Xã viên Hợp tác xã Mễ Trì Thượng, huyện Từ Liêm (ngoại thành Hà Nội) tích cực tăng gia sản xuất (năm 1970). Ảnh: Văn Bảo - TTXVN
  • Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng tăng nhanh so với trước chiến tranh. Trong ảnh: Công nhân Nhà máy Điện Yên Phụ tìm hiểu cách sử dụng thiết bị mới (Tháng 5/1970). Ảnh: Trần Phác - TTXVN
    Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng tăng nhanh so với trước chiến tranh. Trong ảnh: Công nhân Nhà máy Điện Yên Phụ tìm hiểu cách sử dụng thiết bị mới (Tháng 5/1970). Ảnh: Trần Phác - TTXVN
  • Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng tăng nhanh so với trước chiến tranh. Trong ảnh: Công nhân Nhà máy Điện Yên Phụ vận hành lò máy (Tháng 9/1970). Ảnh: Trần Phác-TTXVN
    Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng tăng nhanh so với trước chiến tranh. Trong ảnh: Công nhân Nhà máy Điện Yên Phụ vận hành lò máy (Tháng 9/1970). Ảnh: Trần Phác-TTXVN
  • Trong suốt những năm thực hiện chính sách Kinh tế kế hoạch hóa, hệ thống cửa hàng Mậu dịch Quốc doanh là nguồn cung cấp chủ yếu các mặt hàng thiết yếu, đảm bảo cuộc sống cho người dân Hà Nội. Trong ảnh: Công ty Bách hóa Bán lẻ Hà Nội tổ chức đóng gói hàng Tết đúng tiêu chuẩn định lượng và điều vận tốt hàng hóa đến bán tại các cửa hàng bách hóa và các quầy hàng tập thể ở cơ quan, xí nghiệp, phục vụ nhân dân trong dịp Tết Canh Tuất 1970. Ảnh: Trần Phác - TTXVN
    Trong suốt những năm thực hiện chính sách Kinh tế kế hoạch hóa, hệ thống cửa hàng Mậu dịch Quốc doanh là nguồn cung cấp chủ yếu các mặt hàng thiết yếu, đảm bảo cuộc sống cho người dân Hà Nội. Trong ảnh: Công ty Bách hóa Bán lẻ Hà Nội tổ chức đóng gói hàng Tết đúng tiêu chuẩn định lượng và điều vận tốt hàng hóa đến bán tại các cửa hàng bách hóa và các quầy hàng tập thể ở cơ quan, xí nghiệp, phục vụ nhân dân trong dịp Tết Canh Tuất 1970. Ảnh: Trần Phác - TTXVN
  • Trong ảnh: Tổ bán lẻ bách hóa thuộc Xí nghiệp bán lẻ Lạng Sơn bảo đảm đưa hàng về tận tay người tiêu dùng, nhất là vùng nông thôn hẻo lánh (tháng 4/1969). Ảnh: Thiệu Văn – TTXVN
    Trong ảnh: Tổ bán lẻ bách hóa thuộc Xí nghiệp bán lẻ Lạng Sơn bảo đảm đưa hàng về tận tay người tiêu dùng, nhất là vùng nông thôn hẻo lánh (tháng 4/1969). Ảnh: Thiệu Văn – TTXVN
  • Trong ảnh: Thực hiện phương châm hàng đến tận tay người tiêu dùng, thiết thực phục vụ công nhân cảng, cửa hàng công nghệ phẩm khu phố Ngô Quyền, Hải Phòng ưu tiên dành những mặt hàng phù hợp với yêu cầu của công nhân mang hàng đến tận cảng bán cho công nhân (tháng 1/1969). Ảnh: Bảo Hanh – TTXVN
    Trong ảnh: Thực hiện phương châm hàng đến tận tay người tiêu dùng, thiết thực phục vụ công nhân cảng, cửa hàng công nghệ phẩm khu phố Ngô Quyền, Hải Phòng ưu tiên dành những mặt hàng phù hợp với yêu cầu của công nhân mang hàng đến tận cảng bán cho công nhân (tháng 1/1969). Ảnh: Bảo Hanh – TTXVN
  • Ngày 28/10/1968, Bộ Chính trị ra nghị quyết về khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc sau khi kết thúc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, trong đó nêu rõ nhiệm vụ trước mắt là phải tập trung bảo đảm đầy đủ và kịp thời yêu cầu tăng cường sức chiến đấu cho tiền tuyến, thực hiện khẩu hiệu
    Ngày 28/10/1968, Bộ Chính trị ra nghị quyết về khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc sau khi kết thúc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, trong đó nêu rõ nhiệm vụ trước mắt là phải tập trung bảo đảm đầy đủ và kịp thời yêu cầu tăng cường sức chiến đấu cho tiền tuyến, thực hiện khẩu hiệu "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Trong ảnh: Lễ xuất phát của đoàn thanh niên xung phong Hà Nội lên đường chống Mỹ, cứu nước, tổ chức ở Nhà hát Lớn, Hà Nội, ngày 11/7/1969. Ảnh: Tư liệu/TTXVN
  • Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, miền Bắc có nhiệm vụ vừa chiến đấu, vừa sản xuất; vừa giữ vững sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa làm tròn vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Trong ảnh: Đội sản xuất Nam Khánh - đội lao động XHCN của hợp tác xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Hà cân lợn bán cho nhà nước (tháng 11/1968). Ảnh: Minh Trường – TTXVN
    Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, miền Bắc có nhiệm vụ vừa chiến đấu, vừa sản xuất; vừa giữ vững sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa làm tròn vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Trong ảnh: Đội sản xuất Nam Khánh - đội lao động XHCN của hợp tác xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Hà cân lợn bán cho nhà nước (tháng 11/1968). Ảnh: Minh Trường – TTXVN
  • Trong 4 năm vừa chiến đấu, vừa sản xuất (1965 - 1968), miền Bắc đã chuyển vào miền Nam một khối lượng về sức người, sức của nhiều gấp 10 lần so với thời kỳ trước. Trong ảnh: Bộ đội miền Bắc, trong đó có hàng vạn người con Thủ đô lên đường chi viện cho chiến trường miền Nam. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
    Trong 4 năm vừa chiến đấu, vừa sản xuất (1965 - 1968), miền Bắc đã chuyển vào miền Nam một khối lượng về sức người, sức của nhiều gấp 10 lần so với thời kỳ trước. Trong ảnh: Bộ đội miền Bắc, trong đó có hàng vạn người con Thủ đô lên đường chi viện cho chiến trường miền Nam. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
  • Trong ảnh: Trong 4 năm vừa chiến đấu, vừa sản xuất (1965 - 1968), miền Bắc đã chuyển vào miền Nam một khối lượng về sức người, sức của nhiều gấp 10 lần so với thời ky trước. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
    Trong ảnh: Trong 4 năm vừa chiến đấu, vừa sản xuất (1965 - 1968), miền Bắc đã chuyển vào miền Nam một khối lượng về sức người, sức của nhiều gấp 10 lần so với thời ky trước. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
  • Lực lượng Quân giải phóng miền Nam trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt. Với sự hình thành lực lượng vũ trang ba thứ quân đều khắp trên toàn miền Nam, trong Chiến dịch Đông Xuân năm 1964 – 1965, Quân giải phóng đã mở những chiến dịch tiến công quy mô lớn, gây cho địch nhiều tổn thất. Trong ảnh: Quân giải phóng miền Đông Nam bộ hành quân trong Chiến dịch Đông Xuân năm 1964 – 1965. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
    Lực lượng Quân giải phóng miền Nam trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt. Với sự hình thành lực lượng vũ trang ba thứ quân đều khắp trên toàn miền Nam, trong Chiến dịch Đông Xuân năm 1964 – 1965, Quân giải phóng đã mở những chiến dịch tiến công quy mô lớn, gây cho địch nhiều tổn thất. Trong ảnh: Quân giải phóng miền Đông Nam bộ hành quân trong Chiến dịch Đông Xuân năm 1964 – 1965. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
  • Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, miền Bắc có nhiệm vụ vừa chiến đấu, vừa sản xuất; vừa giữ vững sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa làm tròn vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Trong ảnh: Thanh niên Hà Nội hăng hái lên đường chi viện cho miền Nam trong chiến dịch Tết Mậu Thân 1968. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
    Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, miền Bắc có nhiệm vụ vừa chiến đấu, vừa sản xuất; vừa giữ vững sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa làm tròn vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Trong ảnh: Thanh niên Hà Nội hăng hái lên đường chi viện cho miền Nam trong chiến dịch Tết Mậu Thân 1968. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
  • Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, nông dân tập thể miền Bắc đẩy mạnh sản xuất, mở rộng diện tích canh tác, nâng cao năng suất lao động. Số địa phương và hợp tác xã nông nghiệp đạt mục tiêu 5 tấn thóc/ha ngày càng tăng. Trong ảnh: Nông dân tập thể huyện Vũ Tiến, tỉnh Thái Bình đem thóc bán cho nhà nước để làm trọn nhiệm vụ hậu phương, góp phần đánh thắng giặc Mỹ xâm lược (tháng 7/1967). Ảnh: Hoàng Thiện – TTXVN
    Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, nông dân tập thể miền Bắc đẩy mạnh sản xuất, mở rộng diện tích canh tác, nâng cao năng suất lao động. Số địa phương và hợp tác xã nông nghiệp đạt mục tiêu 5 tấn thóc/ha ngày càng tăng. Trong ảnh: Nông dân tập thể huyện Vũ Tiến, tỉnh Thái Bình đem thóc bán cho nhà nước để làm trọn nhiệm vụ hậu phương, góp phần đánh thắng giặc Mỹ xâm lược (tháng 7/1967). Ảnh: Hoàng Thiện – TTXVN
  • Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng tăng nhanh so với trước chiến tranh. Mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh, có thể tự cấp tự túc đến mức cao nhất, bảo đảm hậu cần tại chỗ cho cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại. Trong ảnh: Tết Trung thu năm 1967,  Cửa hàng Bách hóa số 5 đường Nam Bộ, Hà Nội tổ chức nhiều quầy hàng phân tán phục vụ thiếu nhi, đặc biệt chú ý các cháu nơi trại trẻ sơ tán (tháng 9/1967). Ảnh: Thế Trung – TTXVN
    Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng tăng nhanh so với trước chiến tranh. Mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh, có thể tự cấp tự túc đến mức cao nhất, bảo đảm hậu cần tại chỗ cho cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại. Trong ảnh: Tết Trung thu năm 1967, Cửa hàng Bách hóa số 5 đường Nam Bộ, Hà Nội tổ chức nhiều quầy hàng phân tán phục vụ thiếu nhi, đặc biệt chú ý các cháu nơi trại trẻ sơ tán (tháng 9/1967). Ảnh: Thế Trung – TTXVN
  • Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng tăng nhanh so với trước chiến tranh. Mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh, có thể tự cấp tự túc đến mức cao nhất, bảo đảm hậu cần tại chỗ cho cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại. Trong ảnh: Công nhân cửa hàng thực phẩm Chợ Con, Hải Phòng chuẩn bị nguồn hàng đậu phụ bán phân phối cho các cửa hàng trong thành phố (tháng 4/1967). Ảnh: Bảo Hanh – TTXVN
    Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng tăng nhanh so với trước chiến tranh. Mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh, có thể tự cấp tự túc đến mức cao nhất, bảo đảm hậu cần tại chỗ cho cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại. Trong ảnh: Công nhân cửa hàng thực phẩm Chợ Con, Hải Phòng chuẩn bị nguồn hàng đậu phụ bán phân phối cho các cửa hàng trong thành phố (tháng 4/1967). Ảnh: Bảo Hanh – TTXVN
  • Ngay từ buổi đầu chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc lần thứ nhất, các cơ sở công nghiệp lớn đã được kịp thời sơ tán, phân tán và sớm đi vào hoạt động, bảo đảm những nhu cầu thiết yếu nhất cho chiến đấu, sản xuất và đời sống. Trong ảnh: Tổ bán hàng của Cửa hàng Bách hóa số 12 Bờ Hồ, Hà Nội tổ chức bán hàng phục vụ ở 1 khối dân phố (tháng 2/1967). Ảnh: Vũ Tín – TTXVN
    Ngay từ buổi đầu chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc lần thứ nhất, các cơ sở công nghiệp lớn đã được kịp thời sơ tán, phân tán và sớm đi vào hoạt động, bảo đảm những nhu cầu thiết yếu nhất cho chiến đấu, sản xuất và đời sống. Trong ảnh: Tổ bán hàng của Cửa hàng Bách hóa số 12 Bờ Hồ, Hà Nội tổ chức bán hàng phục vụ ở 1 khối dân phố (tháng 2/1967). Ảnh: Vũ Tín – TTXVN
  • Sau khi Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất (8/1964), Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 (3/1965) đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng miền Bắc, trong đó có vấn đề xây dựng kinh tế địa phương. Nông dân tập thể với khẩu hiệu
    Sau khi Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất (8/1964), Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 (3/1965) đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng miền Bắc, trong đó có vấn đề xây dựng kinh tế địa phương. Nông dân tập thể với khẩu hiệu "Chắc tay súng, vững tay cày", vừa chiến đấu dũng cảm, vừa lao động cần cù, thi đua phấn đấu đạt "Ba mục tiêu" trong nông nghiệp. Trong ảnh: Thái Bình tiếp tục phát huy vai trò là một vựa lúa quan trọng của miền Bắc. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
  • Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, miền Bắc có nhiệm vụ vừa chiến đấu, vừa sản xuất; vừa giữ vững sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa làm tròn vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Trong ảnh: Phần lớn nhà máy dệt Nam Định được sơ tán về các vùng nông thôn, chỉ còn một vài bộ phận hoạt động tại thành phố. Các công nhân mặc quân phục vừa làm việc vừa đeo súng trường để sẵn sàng chiến đấu. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
    Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, miền Bắc có nhiệm vụ vừa chiến đấu, vừa sản xuất; vừa giữ vững sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa làm tròn vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Trong ảnh: Phần lớn nhà máy dệt Nam Định được sơ tán về các vùng nông thôn, chỉ còn một vài bộ phận hoạt động tại thành phố. Các công nhân mặc quân phục vừa làm việc vừa đeo súng trường để sẵn sàng chiến đấu. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
  • Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, năng lực sản xuất ở một số ngành công nghiệp vẫn được giữ vững, bảo đảm những nhu cầu thiết yếu nhất cho chiến đấu, sản xuất và đời sống. Công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng tăng nhanh so với trước chiến tranh. Trong ảnh: Công nhân trong Nhà máy Dệt 8/3 đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất. Ảnh: Tư liệu TTXVN
    Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, năng lực sản xuất ở một số ngành công nghiệp vẫn được giữ vững, bảo đảm những nhu cầu thiết yếu nhất cho chiến đấu, sản xuất và đời sống. Công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng tăng nhanh so với trước chiến tranh. Trong ảnh: Công nhân trong Nhà máy Dệt 8/3 đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất. Ảnh: Tư liệu TTXVN
  • Từ 1963 – 1966, tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện thí điểm “khoán hộ”, tiến tới thực hiện NQ 68 ngày 10/9/1966 của Tỉnh ủy, đem lại năng suất lao động ngày càng cao trong nông nghiệp, là cơ sở để sau này Đảng ta ra Chỉ thị 100-CT/TW và Nghị quyết 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp (còn gọi là “Khoán 10”), đưa nông nghiệp Việt Nam “bay cao”, trở thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới hiện nay. Trong ảnh: Xã viên HTX Hòa Loan, tỉnh Vĩnh Phúc dùng cày máy ở ruộng nước để tăng năng suất gieo cấy trong vụ mùa 1966. Ảnh: Hoàng Thiện – TTXVN
    Từ 1963 – 1966, tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện thí điểm “khoán hộ”, tiến tới thực hiện NQ 68 ngày 10/9/1966 của Tỉnh ủy, đem lại năng suất lao động ngày càng cao trong nông nghiệp, là cơ sở để sau này Đảng ta ra Chỉ thị 100-CT/TW và Nghị quyết 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp (còn gọi là “Khoán 10”), đưa nông nghiệp Việt Nam “bay cao”, trở thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới hiện nay. Trong ảnh: Xã viên HTX Hòa Loan, tỉnh Vĩnh Phúc dùng cày máy ở ruộng nước để tăng năng suất gieo cấy trong vụ mùa 1966. Ảnh: Hoàng Thiện – TTXVN
  • Từ 1963 – 1966, tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện thí điểm “khoán hộ”, tiến tới thực hiện NQ 68 ngày 10/9/1966 của Tỉnh ủy, đem lại năng suất lao động ngày càng cao trong nông nghiệp, là cơ sở để sau này Đảng ta ra Chỉ thị 100-CT/TW và Nghị quyết 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp (còn gọi là “Khoán 10”), đưa nông nghiệp Việt Nam “bay cao”, trở thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới hiện nay. Trong ảnh: Vụ chiêm 1966, HTX Tiên Hường (Vĩnh Phúc) đã làm xong nghĩa vụ 125 tấn với Nhà nước. Ảnh: Phạm Tuệ - TTXVN
    Từ 1963 – 1966, tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện thí điểm “khoán hộ”, tiến tới thực hiện NQ 68 ngày 10/9/1966 của Tỉnh ủy, đem lại năng suất lao động ngày càng cao trong nông nghiệp, là cơ sở để sau này Đảng ta ra Chỉ thị 100-CT/TW và Nghị quyết 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp (còn gọi là “Khoán 10”), đưa nông nghiệp Việt Nam “bay cao”, trở thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới hiện nay. Trong ảnh: Vụ chiêm 1966, HTX Tiên Hường (Vĩnh Phúc) đã làm xong nghĩa vụ 125 tấn với Nhà nước. Ảnh: Phạm Tuệ - TTXVN
  • Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, miền Bắc có nhiệm vụ vừa chiến đấu, vừa sản xuất; vừa giữ vững sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa làm tròn vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Trong ảnh: Công nhân Lò cao Công ty Gang thép Thái Nguyên thi đua sản xuất (1966). Ảnh: Trần Phác - TTXVN
    Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, miền Bắc có nhiệm vụ vừa chiến đấu, vừa sản xuất; vừa giữ vững sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa làm tròn vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Trong ảnh: Công nhân Lò cao Công ty Gang thép Thái Nguyên thi đua sản xuất (1966). Ảnh: Trần Phác - TTXVN
  • Sau khi Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất (8/1964), Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 (3/1965) đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng miền Bắc, tăng cường lực lượng quốc phòng, nêu cao ý chí
    Sau khi Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất (8/1964), Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 (3/1965) đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng miền Bắc, tăng cường lực lượng quốc phòng, nêu cao ý chí "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", gây cho địch những thiệt hại nặng nề. Trong ảnh: Đại đội 2, đơn vị quyết thắng đoàn Tô Vĩnh Diện pháo cao xạ bảo vệ Thủ đô nổ súng kịp thời, chính xác, góp phần cùng quân dân Thủ đô bắn rơi 3 máy bay Mỹ trong ngày 14/12/1967. Ảnh: Hữu Thứ - TTXVN
  • Trong hơn 4 năm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ (5/8/1964 - 1/11/1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi, bắn cháy 3.234 máy bay; trong đó có 6 máy bay B.52; diệt và bắt nhiều phi công. Trong ảnh: Phi công Mỹ William Andrew Robinson bị bắt và được áp giải bởi nữ dân quân Nguyễn Thị Kim Lai khi máy bay bị bắn rơi tại thị trấn Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, đêm 20/9/1965. Ảnh: Phan Thoan - TTXVN
    Trong hơn 4 năm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ (5/8/1964 - 1/11/1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi, bắn cháy 3.234 máy bay; trong đó có 6 máy bay B.52; diệt và bắt nhiều phi công. Trong ảnh: Phi công Mỹ William Andrew Robinson bị bắt và được áp giải bởi nữ dân quân Nguyễn Thị Kim Lai khi máy bay bị bắn rơi tại thị trấn Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, đêm 20/9/1965. Ảnh: Phan Thoan - TTXVN
  • Trong hơn 4 năm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ (5/8/1964 - 1/11/1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi, bắn cháy 3.234 máy bay; trong đó có 6 máy bay B.52; diệt và bắt nhiều phi công. Trong ảnh: Phi công Mỹ Bob Shumaker trở thành tù binh thứ hai ở miền Bắc Việt Nam (tháng 2/1965). Ảnh: Tư liệu/TTXVN
    Trong hơn 4 năm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ (5/8/1964 - 1/11/1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi, bắn cháy 3.234 máy bay; trong đó có 6 máy bay B.52; diệt và bắt nhiều phi công. Trong ảnh: Phi công Mỹ Bob Shumaker trở thành tù binh thứ hai ở miền Bắc Việt Nam (tháng 2/1965). Ảnh: Tư liệu/TTXVN
  • Sau khi Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất (8/1964), Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 (3/1965) đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng miền Bắc, tăng cường lực lượng quốc phòng, nêu cao ý chí
    Sau khi Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất (8/1964), Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 (3/1965) đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng miền Bắc, tăng cường lực lượng quốc phòng, nêu cao ý chí "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", gây cho địch những thiệt hại nặng nề. Trong ảnh: Phi công Mỹ bị bắt sống trong chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc lần thứ nhất. Ảnh: TTXVN
  • Trong hơn 4 năm chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc lần thứ nhất (5/8/1964 - 1/11/1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi, bắn cháy 3.234 máy bay; trong đó có 6 máy bay B.52; diệt và bắt nhiều phi công. Trong ảnh: Phi công Mỹ bị quân và dân Thanh Hóa bắt sống tại Hàm Rồng năm 1966. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
    Trong hơn 4 năm chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc lần thứ nhất (5/8/1964 - 1/11/1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi, bắn cháy 3.234 máy bay; trong đó có 6 máy bay B.52; diệt và bắt nhiều phi công. Trong ảnh: Phi công Mỹ bị quân và dân Thanh Hóa bắt sống tại Hàm Rồng năm 1966. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
  • Tháng 5/1971, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta trong giai đoạn này, trong đó mở Chiến dịch Trị Thiên 1972 với 17 cuộc tiến công chiến lược và giành thắng lợi trên chiến trường miền Nam năm 1972, góp phần buộc Mỹ phải ký kết Hiệp địch Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Pháo binh Quân giải phóng trút bão lửa xuống căn cứ Dốc Miếu, Quảng Trị (năm 1972). Ảnh: Nghĩa Dũng - TTXVN
    Tháng 5/1971, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta trong giai đoạn này, trong đó mở Chiến dịch Trị Thiên 1972 với 17 cuộc tiến công chiến lược và giành thắng lợi trên chiến trường miền Nam năm 1972, góp phần buộc Mỹ phải ký kết Hiệp địch Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Pháo binh Quân giải phóng trút bão lửa xuống căn cứ Dốc Miếu, Quảng Trị (năm 1972). Ảnh: Nghĩa Dũng - TTXVN
  • Tháng 5/1971, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta trong giai đoạn này, trong đó mở Chiến dịch Trị Thiên 1972 với 17 cuộc tiến công chiến lược và giành thắng lợi trên chiến trường miền Nam năm 1972, góp phần buộc Mỹ phải ký kết Hiệp địch Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Ngày 30/3/1972, Quân giải phóng  tiến công đánh chiếm điểm cao 365, mở màn chiến dịch giải phóng Quảng Trị. Ảnh: Lương Nghĩa Dũng - TTXVN
    Tháng 5/1971, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta trong giai đoạn này, trong đó mở Chiến dịch Trị Thiên 1972 với 17 cuộc tiến công chiến lược và giành thắng lợi trên chiến trường miền Nam năm 1972, góp phần buộc Mỹ phải ký kết Hiệp địch Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Ngày 30/3/1972, Quân giải phóng tiến công đánh chiếm điểm cao 365, mở màn chiến dịch giải phóng Quảng Trị. Ảnh: Lương Nghĩa Dũng - TTXVN
  • Trong 4 năm chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc lần thứ nhất (1965 - 1968), thông qua 2 tuyến đường vận tải chiến lược: đường Trường Sơn và đường Hồ Chí Minh trên biển, miền Bắc đã đưa vào các chiến trường và vùng giải phóng miền Nam một khối lượng về sức người, sức của nhiều gấp 10 lần so với thời kỳ trước. Trong ảnh: Lực lượng thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến đảm bảo giao thông trên đường Trường Sơn. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
    Trong 4 năm chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc lần thứ nhất (1965 - 1968), thông qua 2 tuyến đường vận tải chiến lược: đường Trường Sơn và đường Hồ Chí Minh trên biển, miền Bắc đã đưa vào các chiến trường và vùng giải phóng miền Nam một khối lượng về sức người, sức của nhiều gấp 10 lần so với thời kỳ trước. Trong ảnh: Lực lượng thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến đảm bảo giao thông trên đường Trường Sơn. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
  • Trong 4 năm chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc lần thứ nhất (1965 - 1968), thông qua 2 tuyến đường vận tải chiến lược: đường Trường Sơn và đường Hồ Chí Minh trên biển, miền Bắc đã đưa vào các chiến trường và vùng giải phóng miền Nam một khối lượng về sức người, sức của nhiều gấp 10 lần so với thời kỳ trước. Trong ảnh: Vận chuyển người và phương tiện vào miền Nam trên tuyến đường Trường Sơn. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
    Trong 4 năm chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc lần thứ nhất (1965 - 1968), thông qua 2 tuyến đường vận tải chiến lược: đường Trường Sơn và đường Hồ Chí Minh trên biển, miền Bắc đã đưa vào các chiến trường và vùng giải phóng miền Nam một khối lượng về sức người, sức của nhiều gấp 10 lần so với thời kỳ trước. Trong ảnh: Vận chuyển người và phương tiện vào miền Nam trên tuyến đường Trường Sơn. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
  • Tháng 5/1971, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta trong giai đoạn này, trong đó mở Chiến dịch Trị Thiên 1972 với 17 cuộc tiến công chiến lược và giành thắng lợi trên chiến trường miền Nam năm 1972, góp phần buộc Mỹ phải ký kết Hiệp địch Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Quân giải phóng chiếm căn cứ Đầu Mầu - một trong những cứ điểm phòng thủ chủ chốt nhất của địch ở Vùng Một chiến thuật. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
    Tháng 5/1971, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta trong giai đoạn này, trong đó mở Chiến dịch Trị Thiên 1972 với 17 cuộc tiến công chiến lược và giành thắng lợi trên chiến trường miền Nam năm 1972, góp phần buộc Mỹ phải ký kết Hiệp địch Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Quân giải phóng chiếm căn cứ Đầu Mầu - một trong những cứ điểm phòng thủ chủ chốt nhất của địch ở Vùng Một chiến thuật. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
  • Tháng 5/1971, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta trong giai đoạn này, trong đó mở Chiến dịch Trị Thiên 1972 với 17 cuộc tiến công chiến lược và giành thắng lợi trên chiến trường miền Nam năm 1972, góp phần buộc Mỹ phải ký kết Hiệp địch Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Quân giải phóng chiếm căn cứ Đầu Mầu - một trong những cứ điểm phòng thủ chủ chốt nhất của địch ở Vùng Một chiến thuật. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
    Tháng 5/1971, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta trong giai đoạn này, trong đó mở Chiến dịch Trị Thiên 1972 với 17 cuộc tiến công chiến lược và giành thắng lợi trên chiến trường miền Nam năm 1972, góp phần buộc Mỹ phải ký kết Hiệp địch Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Quân giải phóng chiếm căn cứ Đầu Mầu - một trong những cứ điểm phòng thủ chủ chốt nhất của địch ở Vùng Một chiến thuật. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
  • Tháng 5/1971, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta trong giai đoạn này, trong đó mở Chiến dịch Trị Thiên 1972 với 17 cuộc tiến công chiến lược và giành thắng lợi trên chiến trường miền Nam năm 1972, góp phần buộc Mỹ phải ký kết Hiệp địch Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Các chiến sỹ giải phóng phất cờ chiến thắng trên nóc lô cốt địch ở điểm cao 365 (Quảng Trị), ngày 30/3/1972. Ảnh: Tư liệu TTXVN
    Tháng 5/1971, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta trong giai đoạn này, trong đó mở Chiến dịch Trị Thiên 1972 với 17 cuộc tiến công chiến lược và giành thắng lợi trên chiến trường miền Nam năm 1972, góp phần buộc Mỹ phải ký kết Hiệp địch Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong ảnh: Các chiến sỹ giải phóng phất cờ chiến thắng trên nóc lô cốt địch ở điểm cao 365 (Quảng Trị), ngày 30/3/1972. Ảnh: Tư liệu TTXVN
  • Thắng lợi của quân và dân ta trong Chiến dịch Ðường 9 - Nam Lào (30/1 - 23/3/1971) có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng cả về quân sự và chính trị: đánh bại quân chủ lực ngụy có sự yểm trợ của chủ lực Mỹ, đánh bại cố gắng cao nhất của Mỹ trong thực hiện chiến lược
    Thắng lợi của quân và dân ta trong Chiến dịch Ðường 9 - Nam Lào (30/1 - 23/3/1971) có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng cả về quân sự và chính trị: đánh bại quân chủ lực ngụy có sự yểm trợ của chủ lực Mỹ, đánh bại cố gắng cao nhất của Mỹ trong thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", đánh dấu bước thất bại nghiêm trọng của chiến lược này; chấm dứt quá trình tiến công - phản kích đánh ra vòng ngoài bằng các cuộc hành quân lớn của Mỹ - ngụy.Trong ảnh: Quân giải phóng chiến đấu kiên cường, bảo vệ từng tấc đất ở thành cổ Quảng Trị, năm 1971. Ảnh: TTXVN
  • Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy chiến lược Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam đã đạt được mục tiêu chiến lược cực kỳ quan trọng của Đảng đề ra: tạo bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự thất bại của chiến lược
    Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy chiến lược Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam đã đạt được mục tiêu chiến lược cực kỳ quan trọng của Đảng đề ra: tạo bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự thất bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược phòng ngự trên toàn chiến trường và phải ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Hội nghị Paris, làm thay đổi cục diện trên chiến trường miền Nam. Trong ảnh: Quân giải phóng tấn công các địa điểm quan trọng của Mỹ tại Sài Gòn (1968). Ảnh: Tư liệu TTXVN
  • Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy chiến lược Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam đã đạt được mục tiêu chiến lược cực kỳ quan trọng của Đảng đề ra: giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải đơn phương ngừng ném bom miền Bắc và phải đi đến đàm phán, thương lượng với ta. Trong ảnh: Quân giải phóng tấn công Đài Phát thanh Sài Gòn, sáng mùng 1 Tết Mậu Thân 1968. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
    Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy chiến lược Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam đã đạt được mục tiêu chiến lược cực kỳ quan trọng của Đảng đề ra: giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải đơn phương ngừng ném bom miền Bắc và phải đi đến đàm phán, thương lượng với ta. Trong ảnh: Quân giải phóng tấn công Đài Phát thanh Sài Gòn, sáng mùng 1 Tết Mậu Thân 1968. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
  • Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy chiến lược Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam đã đạt được mục tiêu chiến lược cực kỳ quan trọng của Đảng đề ra: giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải đơn phương ngừng ném bom miền Bắc và phải đi đến đàm phán, thương lượng với ta. Trong ảnh: Sáng 2/1/1968, quân giải phóng tập kích vào cụm đóng quân của địch ở Bà Chiêm (Tây Ninh), tiêu diệt Tiểu đoàn 3, Lữ đoàn 1, Sư đoàn bộ binh số 1 của Mỹ. Ảnh: Tư liệu TTXVN
    Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy chiến lược Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam đã đạt được mục tiêu chiến lược cực kỳ quan trọng của Đảng đề ra: giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải đơn phương ngừng ném bom miền Bắc và phải đi đến đàm phán, thương lượng với ta. Trong ảnh: Sáng 2/1/1968, quân giải phóng tập kích vào cụm đóng quân của địch ở Bà Chiêm (Tây Ninh), tiêu diệt Tiểu đoàn 3, Lữ đoàn 1, Sư đoàn bộ binh số 1 của Mỹ. Ảnh: Tư liệu TTXVN
  • Ngay sau khi Mỹ leo thang, gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 (3/1965) đã kịp thời đề ra nhiều chủ trương và biện pháp tổ chức, sử dụng hợp lí các lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu; đảm bảo thực hiện tốt cùng lúc cả hai nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng. Trong ảnh: Bộ đội tên lửa phòng không đóng vai trò quan trọng trong việc đánh thắng chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của Mỹ. Ảnh: Hứa Kiểm - TTXVN
    Ngay sau khi Mỹ leo thang, gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 (3/1965) đã kịp thời đề ra nhiều chủ trương và biện pháp tổ chức, sử dụng hợp lí các lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu; đảm bảo thực hiện tốt cùng lúc cả hai nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng. Trong ảnh: Bộ đội tên lửa phòng không đóng vai trò quan trọng trong việc đánh thắng chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của Mỹ. Ảnh: Hứa Kiểm - TTXVN
  • Trong ảnh: Suốt 16 năm ròng rã (1959 - 1975), vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, bộ đội Trường Sơn cùng lực lượng thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến đã xây dựng và phát triển con đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh
    Trong ảnh: Suốt 16 năm ròng rã (1959 - 1975), vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, bộ đội Trường Sơn cùng lực lượng thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến đã xây dựng và phát triển con đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh "huyền thoại" trong mưa bom, bão đạn, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thế kỷ 20. Ảnh: TTXVN
  • Ngay sau khi Mỹ leo thang, gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 (3/1965) đã kịp thời đề ra nhiều chủ trương và biện pháp tổ chức, sử dụng hợp lý các lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu; đảm bảo thực hiện tốt cùng lúc cả hai nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng. Trong ảnh: Trong cuộc quyết chiến ngày 3 và 4/4/1965, quân và dân Thanh Hóa anh hùng đã làm nên chiến thắng lẫy lừng, bảo vệ cầu Hàm Rồng an toàn, trong đó, ngày 4/4, lần đầu tiên máy bay ta bắn rơi máy bay địch. Ảnh: Tư liệu TTXVN
    Ngay sau khi Mỹ leo thang, gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 (3/1965) đã kịp thời đề ra nhiều chủ trương và biện pháp tổ chức, sử dụng hợp lý các lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu; đảm bảo thực hiện tốt cùng lúc cả hai nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng. Trong ảnh: Trong cuộc quyết chiến ngày 3 và 4/4/1965, quân và dân Thanh Hóa anh hùng đã làm nên chiến thắng lẫy lừng, bảo vệ cầu Hàm Rồng an toàn, trong đó, ngày 4/4, lần đầu tiên máy bay ta bắn rơi máy bay địch. Ảnh: Tư liệu TTXVN
  • Tháng 6/1966, Trung ương Đảng chủ trương mở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, tạo nên hướng tiến công mới trên một địa bàn chiến lược trọng yếu, buộc địch phải phân tán một bộ phận quan trọng quân chủ lực ra phía Bắc. Trong ảnh: Chiến thắng Đường 9 – Khe Sanh, giải phóng Hướng Hóa năm 1968 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nghi binh chiến lược, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Ảnh: TTXVN
    Tháng 6/1966, Trung ương Đảng chủ trương mở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, tạo nên hướng tiến công mới trên một địa bàn chiến lược trọng yếu, buộc địch phải phân tán một bộ phận quan trọng quân chủ lực ra phía Bắc. Trong ảnh: Chiến thắng Đường 9 – Khe Sanh, giải phóng Hướng Hóa năm 1968 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nghi binh chiến lược, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Ảnh: TTXVN
  • Tháng 6/1966, Trung ương Đảng chủ trương mở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, tạo nên hướng tiến công mới trên một địa bàn chiến lược trọng yếu, buộc địch phải phân tán một bộ phận quan trọng quân chủ lực ra phía Bắc. Trong ảnh: Xác máy bay Mỹ bị quân giải phóng bắn rơi trong chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Ảnh: Tư liệu TTXVN
    Tháng 6/1966, Trung ương Đảng chủ trương mở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, tạo nên hướng tiến công mới trên một địa bàn chiến lược trọng yếu, buộc địch phải phân tán một bộ phận quan trọng quân chủ lực ra phía Bắc. Trong ảnh: Xác máy bay Mỹ bị quân giải phóng bắn rơi trong chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Ảnh: Tư liệu TTXVN
  • Phong trào đấu tranh chính trị kết hợp quân sự trong những năm 1965 - 1968 đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân miền Nam mở rộng quyền làm chủ ở các vùng nông thôn và ven đô thị. Uy tín và ảnh hưởng của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày càng được nâng cao và mở rộng. Trong ảnh: Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam Nguyễn Hữu Thọ với các đại biểu tại Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua, Dũng sĩ các LLVT nhân dân miền Nam Việt Nam lần thứ hai diễn ra tại vùng giải phóng, tháng 9/1967. Ảnh: Tư liệu TTXVN
    Phong trào đấu tranh chính trị kết hợp quân sự trong những năm 1965 - 1968 đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân miền Nam mở rộng quyền làm chủ ở các vùng nông thôn và ven đô thị. Uy tín và ảnh hưởng của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày càng được nâng cao và mở rộng. Trong ảnh: Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam Nguyễn Hữu Thọ với các đại biểu tại Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua, Dũng sĩ các LLVT nhân dân miền Nam Việt Nam lần thứ hai diễn ra tại vùng giải phóng, tháng 9/1967. Ảnh: Tư liệu TTXVN
  • Tại Hội nghị lần thứ 12 (12/1965), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đưa ra những kết luận rất quan trọng để đánh thắng chiến lược
    Tại Hội nghị lần thứ 12 (12/1965), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đưa ra những kết luận rất quan trọng để đánh thắng chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ. Trong ảnh: Du kích xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi bắn rơi máy bay trực thăng Mỹ tại Bàu Lách, ngày 9/5/1965. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
  • Tại Hội nghị lần thứ 12 (12/1965), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đưa ra những kết luận rất quan trọng để đánh thắng chiến lược
    Tại Hội nghị lần thứ 12 (12/1965), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đưa ra những kết luận rất quan trọng để đánh thắng chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ. Với ý chí quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, lại được sự phối hợp và chi viện ngày càng lớn của miền Bắc, quân và dân miền Nam đã chiến đấu anh dũng và liên tiếp giành nhiều thắng lợi. Trong ảnh: Chiến thắng Pleime (19/10 – 26/11/1965) là chiến dịch đầu tiên quân chủ lực của ta chạm trán Sư đoàn kỵ binh bay số 1 của Mỹ, giáng đòn quyết liệt vào uy thế quân Mỹ ngay từ những ngày đầu tham chiến, làm thất bại chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" của Mỹ mới được triển khai. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
  • Tại Hội nghị lần thứ 12 (12/1965), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đưa ra những kết luận rất quan trọng để đánh thắng chiến lược
    Tại Hội nghị lần thứ 12 (12/1965), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đưa ra những kết luận rất quan trọng để đánh thắng chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ. Với ý chí quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, lại được sự phối hợp và chi viện ngày càng lớn của miền Bắc, quân và dân miền Nam đã chiến đấu anh dũng và liên tiếp giành nhiều thắng lợi. Trong ảnh: Chiến thắng Bầu Bàng - Dầu Tiếng (12 - 27/11/1965) đã củng cố niềm tin đánh thắng Mỹ, mở ra phong trào "Tìm Mỹ mà diệt, nắm thắt lưng Mỹ mà đánh" trong các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam. Ảnh: Tư liệu/ TTXVN phát
  • Tại Hội nghị lần thứ 12 (12/1965), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đưa ra những kết luận rất quan trọng để đánh thắng chiến lược
    Tại Hội nghị lần thứ 12 (12/1965), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đưa ra những kết luận rất quan trọng để đánh thắng chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ. Với ý chí quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, lại được sự phối hợp và chi viện ngày càng lớn của miền Bắc, quân và dân miền Nam đã chiến đấu anh dũng và liên tiếp giành nhiều thắng lợi. Trong ảnh: Chiến thắng Bình Giã (2/12/1964 - 3/1/1965) là trận đánh có ý nghĩa đánh dấu bước trưởng thành của bộ đội chủ lực ta và báo hiệu thất bại của các biện pháp chiến thuật "Trực thăng vận" và "Thiết xa vận" của Mỹ ngụy trong "Chiến tranh đặc biệt". Ảnh: Tư liệu TTXVN
Trong giai đoạn 1965 - 1973, Đảng tiếp tục lãnh đạo cả nước kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, kể từ sau khi Mỹ phát động chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc, đến khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973. Đây là thời kỳ cả nước có chiến tranh dưới những hình thức và mức độ khác nhau. Ảnh: TTXVN

Ảnh Ảnh chuyên đề

Tin mới

TTXVN