80 năm Quốc hội Việt Nam: Quốc hội trong kháng chiến và thống nhất đất nước (1960-1980)

  • Ngày 18/12/1980, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã nhất trí thông qua Hiến pháp. Với 12 chương, 147 điều, Hiến pháp năm 1980 đã xác định bản chất giai cấp của Nhà nước ta là Nhà nước chuyên chính vô sản, có sứ mệnh lịch sử là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Ảnh: TTXVN
    Ngày 18/12/1980, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã nhất trí thông qua Hiến pháp. Với 12 chương, 147 điều, Hiến pháp năm 1980 đã xác định bản chất giai cấp của Nhà nước ta là Nhà nước chuyên chính vô sản, có sứ mệnh lịch sử là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Ảnh: TTXVN
  • Đồng chí Nguyễn Hữu Thọ, quyền Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam ký lệnh công bố Hiến pháp mới, sáng 19/12/1980. Ảnh: Xuân Lâm - TTXVN
    Đồng chí Nguyễn Hữu Thọ, quyền Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam ký lệnh công bố Hiến pháp mới, sáng 19/12/1980. Ảnh: Xuân Lâm - TTXVN
  • Đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội ký chứng nhận bản Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam được thông qua ngày 18/12/1980. Sự ra đời của Hiến pháp mới là một sự kiện quan trọng, là vũ khí sắc bén để toàn dân, toàn quân tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết tâm xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa. Ảnh: Xuân Lâm – TTXVN
    Đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội ký chứng nhận bản Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam được thông qua ngày 18/12/1980. Sự ra đời của Hiến pháp mới là một sự kiện quan trọng, là vũ khí sắc bén để toàn dân, toàn quân tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết tâm xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa. Ảnh: Xuân Lâm – TTXVN
  • Các đại biểu quốc hội thông qua Hiến pháp mới của nước CHXHCN Việt Nam tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa VI. Đây là bản Hiến pháp thứ ba được Quốc hội thông qua để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới. Hiến pháp 1980 đã khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ...” (18/12/1980). Ảnh: Kim Hùng – TTXVN
    Các đại biểu quốc hội thông qua Hiến pháp mới của nước CHXHCN Việt Nam tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa VI. Đây là bản Hiến pháp thứ ba được Quốc hội thông qua để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới. Hiến pháp 1980 đã khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ...” (18/12/1980). Ảnh: Kim Hùng – TTXVN
  • Trong nhiệm kỳ 5 năm, Quốc hội khóa VI đã quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, như: thông qua nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976-1980); phê chuẩn việc phân vạch lại địa giới thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành khác... Trong ảnh: Ủy ban Hiến pháp của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã họp phiên toàn thể để thông qua bản dự thảo hiến pháp mới của Quốc hội (15/6/1979). Ảnh: Nhật Trường – TTXVN
    Trong nhiệm kỳ 5 năm, Quốc hội khóa VI đã quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, như: thông qua nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976-1980); phê chuẩn việc phân vạch lại địa giới thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành khác... Trong ảnh: Ủy ban Hiến pháp của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã họp phiên toàn thể để thông qua bản dự thảo hiến pháp mới của Quốc hội (15/6/1979). Ảnh: Nhật Trường – TTXVN
  • Trong nhiệm kỳ 5 năm, Quốc hội khóa VI đã quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, như: thông qua nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976-1980); phê chuẩn việc phân vạch lại địa giới thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành khác... Trong ảnh: Đại biểu Quốc hội nhất trí thông qua Nghị quyết về thắng lợi vĩ đại của 2 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và nhiệm vụ của nhân dân ta trước tình hình mới tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa VI (1979). Ảnh: Kim Hùng - TTXVN
    Trong nhiệm kỳ 5 năm, Quốc hội khóa VI đã quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, như: thông qua nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976-1980); phê chuẩn việc phân vạch lại địa giới thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành khác... Trong ảnh: Đại biểu Quốc hội nhất trí thông qua Nghị quyết về thắng lợi vĩ đại của 2 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và nhiệm vụ của nhân dân ta trước tình hình mới tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa VI (1979). Ảnh: Kim Hùng - TTXVN
  • Đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trình bày báo cáo chính trị tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội thống nhất (25/6/1976). Ảnh: TTXVN
    Đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trình bày báo cáo chính trị tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội thống nhất (25/6/1976). Ảnh: TTXVN
  • Các đại biểu nhất trí thông qua các Nghị quyết Kế hoạch Nhà nước 1977, Quyết toán ngân sách 1975, Dự toán ngân sách 1977, Sát nhập Côn Đảo với Hậu Giang tại kỳ họp II Quốc hội khóa VI (15/1/1977). Ảnh: Xuân Lâm – TTXVN
    Các đại biểu nhất trí thông qua các Nghị quyết Kế hoạch Nhà nước 1977, Quyết toán ngân sách 1975, Dự toán ngân sách 1977, Sát nhập Côn Đảo với Hậu Giang tại kỳ họp II Quốc hội khóa VI (15/1/1977). Ảnh: Xuân Lâm – TTXVN
  • Quốc hội khóa V ra đời trong bối cảnh lịch sử miền Nam vừa mới giải phóng (30/4/1975) và hoạt động chưa đầy 2 năm (1975-1976). Quốc hội chỉ họp 2 kỳ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội họp 10 phiên, nhưng đã quyết định được nhiều vấn đề quan trọng của đất nước. Trong ảnh: Các thành viên của Hội đồng chính phủ do Quốc hội khóa V bầu ra tại kỳ họp thứ nhất (4/6/1975). Ảnh: TTXVN
    Quốc hội khóa V ra đời trong bối cảnh lịch sử miền Nam vừa mới giải phóng (30/4/1975) và hoạt động chưa đầy 2 năm (1975-1976). Quốc hội chỉ họp 2 kỳ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội họp 10 phiên, nhưng đã quyết định được nhiều vấn đề quan trọng của đất nước. Trong ảnh: Các thành viên của Hội đồng chính phủ do Quốc hội khóa V bầu ra tại kỳ họp thứ nhất (4/6/1975). Ảnh: TTXVN
  • Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội Khóa VI - Quốc hội thống nhất đã bầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội do đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch, 7 Phó Chủ tịch, Tổng thư ký, 13 Uỷ viên chính thức, 2 Uỷ viên dự khuyết (24/6/1976). Ảnh: TTXVN
    Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội Khóa VI - Quốc hội thống nhất đã bầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội do đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch, 7 Phó Chủ tịch, Tổng thư ký, 13 Uỷ viên chính thức, 2 Uỷ viên dự khuyết (24/6/1976). Ảnh: TTXVN
  • Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VI đã thông qua Nghị quyết về tên nước, quốc kỳ, quốc huy, quốc ca và tổ chức Nhà nước khi chưa có Hiến pháp mới (1976). Ảnh: TTXVN
    Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VI đã thông qua Nghị quyết về tên nước, quốc kỳ, quốc huy, quốc ca và tổ chức Nhà nước khi chưa có Hiến pháp mới (1976). Ảnh: TTXVN
  • Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng đọc báo cáo chính trị “Toàn dân đoàn kết xây dựng Tổ quốc Việt Nam thống nhất Xã hội Chủ nghĩa” tai Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất (24/6/1976). Ảnh: TTXVN
    Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng đọc báo cáo chính trị “Toàn dân đoàn kết xây dựng Tổ quốc Việt Nam thống nhất Xã hội Chủ nghĩa” tai Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất (24/6/1976). Ảnh: TTXVN
  • Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VI đã thông qua Nghị quyết về tên nước, quốc kỳ, quốc huy, quốc ca và tổ chức Nhà nước khi chưa có Hiến pháp mới. Quốc hội quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyết định khóa Quốc hội được bầu trong cuộc Tổng tuyển cử ngày 25/4/1976 là Quốc hội khóa VI nước CHXHCN Việt Nam; quyết định chính thức đặt tên thành phố Sài Gòn-Gia Ðịnh là Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đời của nước CHXHCN Việt Nam mở đầu cho bước phát triển mới trong quá trình đi lên của đất nước. Ảnh: TTXVN
    Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VI đã thông qua Nghị quyết về tên nước, quốc kỳ, quốc huy, quốc ca và tổ chức Nhà nước khi chưa có Hiến pháp mới. Quốc hội quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyết định khóa Quốc hội được bầu trong cuộc Tổng tuyển cử ngày 25/4/1976 là Quốc hội khóa VI nước CHXHCN Việt Nam; quyết định chính thức đặt tên thành phố Sài Gòn-Gia Ðịnh là Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đời của nước CHXHCN Việt Nam mở đầu cho bước phát triển mới trong quá trình đi lên của đất nước. Ảnh: TTXVN
  • Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ phát biểu khai mạc Hội nghị Hiệp thương Chính trị giữa hai miền Bắc, Nam tiến tới thống nhất tổ quốc (Sài Gòn, 15/11/1975). Ảnh: TTXVN
    Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ phát biểu khai mạc Hội nghị Hiệp thương Chính trị giữa hai miền Bắc, Nam tiến tới thống nhất tổ quốc (Sài Gòn, 15/11/1975). Ảnh: TTXVN
  • Sau chiến thắng lịch sử 30/4/1975, nước ta hoàn toàn thống nhất. Từ ngày 15 đến ngày 21/11/1975, Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất đất nước được tổ chức tại Sài Gòn. Hai đoàn đại biểu đại diện cho hai miền tham dự hội nghị. Đoàn đại biểu miền Bắc, do đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Quốc hội làm trưởng đoàn, đoàn miền Nam do đồng chí Phạm Hùng - Bí thư Trung ương Cục Miền Nam làm trưởng đoàn tiến hành thảo luận và đi đến nhất trí hoàn toàn mọi vấn đề, nhằm thống nhất đất nước về mặt nhà nước (21/11/1975). Ảnh: TTXVN
    Sau chiến thắng lịch sử 30/4/1975, nước ta hoàn toàn thống nhất. Từ ngày 15 đến ngày 21/11/1975, Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất đất nước được tổ chức tại Sài Gòn. Hai đoàn đại biểu đại diện cho hai miền tham dự hội nghị. Đoàn đại biểu miền Bắc, do đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Quốc hội làm trưởng đoàn, đoàn miền Nam do đồng chí Phạm Hùng - Bí thư Trung ương Cục Miền Nam làm trưởng đoàn tiến hành thảo luận và đi đến nhất trí hoàn toàn mọi vấn đề, nhằm thống nhất đất nước về mặt nhà nước (21/11/1975). Ảnh: TTXVN
  • Trong điều kiện đất nước thống nhất, sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại là tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước - Quốc hội khóa VI. Quốc hội đã quyết định những vấn đề quan trọng hàng đầu trong thời kỳ phát triển mới của dân tộc. Trong ảnh: Công nhân lò rung số 6 và 7, Nhà máy Xi măng Hải Phòng bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội khóa VI tại nơi làm việc. Ảnh: TTXVN
    Trong điều kiện đất nước thống nhất, sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại là tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước - Quốc hội khóa VI. Quốc hội đã quyết định những vấn đề quan trọng hàng đầu trong thời kỳ phát triển mới của dân tộc. Trong ảnh: Công nhân lò rung số 6 và 7, Nhà máy Xi măng Hải Phòng bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội khóa VI tại nơi làm việc. Ảnh: TTXVN
  • Để thể hiện tính liên tục của Nhà nước qua các giai đoạn đấu tranh cách mạng, Quốc hội đã quy định khóa Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất là Quốc hội khóa VI. Trong ảnh: Đồng bào dân tộc Ê Đê (Đắk Lắk) dùng voi mang hòm phiếu lưu động trong ngày bầu cử Quốc hội khóa VI (25/4/1976). Ảnh: TTXVN
    Để thể hiện tính liên tục của Nhà nước qua các giai đoạn đấu tranh cách mạng, Quốc hội đã quy định khóa Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất là Quốc hội khóa VI. Trong ảnh: Đồng bào dân tộc Ê Đê (Đắk Lắk) dùng voi mang hòm phiếu lưu động trong ngày bầu cử Quốc hội khóa VI (25/4/1976). Ảnh: TTXVN
  • Để thể hiện tính liên tục của Nhà nước qua các giai đoạn đấu tranh cách mạng, Quốc hội đã quy định khóa Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất là Quốc hội khóa VI. Trong ảnh: Cử tri thành phố Đà Nẵng đi bầu cử Quốc hội thống nhất (25/4/1976). Ảnh: Hà Mùi - TTXVN
    Để thể hiện tính liên tục của Nhà nước qua các giai đoạn đấu tranh cách mạng, Quốc hội đã quy định khóa Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất là Quốc hội khóa VI. Trong ảnh: Cử tri thành phố Đà Nẵng đi bầu cử Quốc hội thống nhất (25/4/1976). Ảnh: Hà Mùi - TTXVN
  • Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh nô nức đi bỏ phiếu bầu Quốc hội thống nhất (25/4/1976). Ảnh: TTXVN
    Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh nô nức đi bỏ phiếu bầu Quốc hội thống nhất (25/4/1976). Ảnh: TTXVN
  • Để thể hiện tính liên tục của Nhà nước qua các giai đoạn đấu tranh cách mạng, Quốc hội đã quy định khóa Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất là Quốc hội khóa VI. Trong ảnh: Cụ Lê Thị Dưỡng (86 tuổi, đường Lý Thường Kiệt, TP.Huế), già yếu vẫn nhờ người cõng đến hòm phiếu tham gia bầu cử Quốc hội khóa VI (25/4/1976). Ảnh: Sỹ Thái – TTXVN
    Để thể hiện tính liên tục của Nhà nước qua các giai đoạn đấu tranh cách mạng, Quốc hội đã quy định khóa Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất là Quốc hội khóa VI. Trong ảnh: Cụ Lê Thị Dưỡng (86 tuổi, đường Lý Thường Kiệt, TP.Huế), già yếu vẫn nhờ người cõng đến hòm phiếu tham gia bầu cử Quốc hội khóa VI (25/4/1976). Ảnh: Sỹ Thái – TTXVN
  • Sự lãnh đạo của Quốc hội trong thời kỳ 1960-1980 cùng các cơ quan khác đã góp phần quan trọng đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đi đến thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong ảnh:  Xe tăng quân Giải phóng chiếm phủ Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn, trưa 30/4/1975. Ảnh: Mai Hưởng – TTXVN
    Sự lãnh đạo của Quốc hội trong thời kỳ 1960-1980 cùng các cơ quan khác đã góp phần quan trọng đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đi đến thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong ảnh: Xe tăng quân Giải phóng chiếm phủ Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn, trưa 30/4/1975. Ảnh: Mai Hưởng – TTXVN
  • Sự lãnh đạo của Quốc hội trong thời kỳ 1960-1980 cùng các cơ quan khác đã góp phần quan trọng đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đi đến thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước Trong ảnh: Chiến sĩ Bùi Quang Thận (cầm cờ, phía trước) cùng 3 chiến sĩ của Quân đoàn 2 - Binh đoàn Hương Giang tiến vào cắm cờ trên nóc Phủ Tổng thống Ngụy quyền Sài Gòn lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN
    Sự lãnh đạo của Quốc hội trong thời kỳ 1960-1980 cùng các cơ quan khác đã góp phần quan trọng đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đi đến thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước Trong ảnh: Chiến sĩ Bùi Quang Thận (cầm cờ, phía trước) cùng 3 chiến sĩ của Quân đoàn 2 - Binh đoàn Hương Giang tiến vào cắm cờ trên nóc Phủ Tổng thống Ngụy quyền Sài Gòn lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN
  • Đồng chí Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội dẫn đầu đoàn đại biểu Quốc hội thăm thôn Vân, Gia Lâm bị đế quốc Mỹ ném bom trong 12 ngày “Điện Biên Phủ trên không” (Hà Nội, 06/1/1973). Ảnh: Ngọc Khanh – TTXVN
    Đồng chí Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội dẫn đầu đoàn đại biểu Quốc hội thăm thôn Vân, Gia Lâm bị đế quốc Mỹ ném bom trong 12 ngày “Điện Biên Phủ trên không” (Hà Nội, 06/1/1973). Ảnh: Ngọc Khanh – TTXVN
  • Đồng chí Nguyễn Thị Thập, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội thăm làng Quỳnh Đôi bị máy bay Mỹ bắn phá trong 12 ngày “Điện Biên Phủ trên không” (Hà Nội, 06/1/1973). Ảnh: Minh Trường – TTXVN
    Đồng chí Nguyễn Thị Thập, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội thăm làng Quỳnh Đôi bị máy bay Mỹ bắn phá trong 12 ngày “Điện Biên Phủ trên không” (Hà Nội, 06/1/1973). Ảnh: Minh Trường – TTXVN
  • Quốc hội Việt Nam trong thời kỳ 1960-1980 hoạt động trong điều kiện miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm hậu phương lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong ảnh: Chủ tịch Tôn Đức Thắng gặp gỡ các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa IV. Ảnh: TTXVN
    Quốc hội Việt Nam trong thời kỳ 1960-1980 hoạt động trong điều kiện miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm hậu phương lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong ảnh: Chủ tịch Tôn Đức Thắng gặp gỡ các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa IV. Ảnh: TTXVN
  • Quốc hội Việt Nam trong thời kỳ 1960-1980 hoạt động trong điều kiện miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm hậu phương lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong ảnh: Thanh niên Thủ đô nô nức lên đường tòng quân đánh Mỹ, cứu nước. Ảnh: TTXVN
    Quốc hội Việt Nam trong thời kỳ 1960-1980 hoạt động trong điều kiện miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm hậu phương lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong ảnh: Thanh niên Thủ đô nô nức lên đường tòng quân đánh Mỹ, cứu nước. Ảnh: TTXVN
  • Chủ tịch Hồ Chí Minh bỏ phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân khóa V tại đơn vị bầu cử số 1, tiểu khu 1, khu phố Ba Đình (Hà Nội, 27/4/2969). Ảnh: TTXVN
    Chủ tịch Hồ Chí Minh bỏ phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân khóa V tại đơn vị bầu cử số 1, tiểu khu 1, khu phố Ba Đình (Hà Nội, 27/4/2969). Ảnh: TTXVN
  • Quốc hội Việt Nam trong thời kỳ 1960-1980 hoạt động trong điều kiện miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm hậu phương lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong ảnh: Bất chấp những ngăn chặn khốc liệt, tàn bạo, bằng nhiều lực lượng, nhiều thủ đoạn, nhiều loại phương tiện chiến tranh và vũ khí hiện đại nhất lúc bấy giờ của Mỹ, tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn vẫn không ngừng phát triển, đáp ứng sự chi viện to lớn, toàn diện, liên tục, mạnh mẽ của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam. Ảnh: Văn Sắc - TTXVN
    Quốc hội Việt Nam trong thời kỳ 1960-1980 hoạt động trong điều kiện miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm hậu phương lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong ảnh: Bất chấp những ngăn chặn khốc liệt, tàn bạo, bằng nhiều lực lượng, nhiều thủ đoạn, nhiều loại phương tiện chiến tranh và vũ khí hiện đại nhất lúc bấy giờ của Mỹ, tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn vẫn không ngừng phát triển, đáp ứng sự chi viện to lớn, toàn diện, liên tục, mạnh mẽ của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam. Ảnh: Văn Sắc - TTXVN
  • Quốc hội khóa III (1964–1971) là Quốc hội của thời kỳ đất nước thực hiện cả hai chiến lược cách mạng, thời kỳ chống Mỹ cứu nước
    Quốc hội khóa III (1964–1971) là Quốc hội của thời kỳ đất nước thực hiện cả hai chiến lược cách mạng, thời kỳ chống Mỹ cứu nước "tất cả cho tiền tuyến, tất cả để thắng giặc Mỹ xâm lược". Miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; Miền Nam đẩy mạnh cuộc đấu tranh giải phóng. Cao trào thi đua yêu nước dâng lên mạnh mẽ chưa từng có. Trong ảnh: Khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa III (27/6/1964). Ảnh: TTXVN
  • Quốc hội khóa III (1964–1971) là Quốc hội của thời kỳ đất nước thực hiện cả hai chiến lược cách mạng, thời kỳ chống Mỹ cứu nước
    Quốc hội khóa III (1964–1971) là Quốc hội của thời kỳ đất nước thực hiện cả hai chiến lược cách mạng, thời kỳ chống Mỹ cứu nước "tất cả cho tiền tuyến, tất cả để thắng giặc Mỹ xâm lược". Miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; Miền Nam đẩy mạnh cuộc đấu tranh giải phóng. Cao trào thi đua yêu nước dâng lên mạnh mẽ chưa từng có. Trong ảnh: Cử tri khối 63 khu phố Ba Đình (Hà Nội) đi bỏ phiếu bầu Quốc hội khóa III tại hòm phiếu A.24 (24/6/1964). Ảnh: Vũ Tín - TTXVN
  • Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu nhất trí thông qua nghị quyết về kết quả của Hội nghị chính trị đặc biệt và nghị quyết về ngân sách và kế hoạch Nhà nước năm 1964 tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa II (1964). Ảnh: TTXVN
    Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu nhất trí thông qua nghị quyết về kết quả của Hội nghị chính trị đặc biệt và nghị quyết về ngân sách và kế hoạch Nhà nước năm 1964 tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa II (1964). Ảnh: TTXVN
  • Quốc hội khóa II (1960-1964) có dấu ấn lớn trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đẩy mạnh đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ban hành các chính sách dân chủ, chăm lo đời sống, củng cố chính quyền nhà nước và hoạt động đối ngoại tích cực lên án chiến tranh, đạt nhiều thành tựu quan trọng trong bối cảnh đất nước còn khó khăn và chiến tranh ác liệt. Trong ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu nhất trí thông qua Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa II . Ảnh: TTXVN
    Quốc hội khóa II (1960-1964) có dấu ấn lớn trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đẩy mạnh đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ban hành các chính sách dân chủ, chăm lo đời sống, củng cố chính quyền nhà nước và hoạt động đối ngoại tích cực lên án chiến tranh, đạt nhiều thành tựu quan trọng trong bối cảnh đất nước còn khó khăn và chiến tranh ác liệt. Trong ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu nhất trí thông qua Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa II . Ảnh: TTXVN
  • Quốc hội khoá II đã đóng góp quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và khôi phục kinh tế ở miền Bắc, đẩy mạnh cuộc đấu tranh giải phóng ở miền Nam; đã thực thi những chính sách phù hợp về dân chủ, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong những điều kiện cực kỳ khó khăn. Trong ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội khóa II tại tiểu khu Trúc Bạch, khu phố Ba Đình (Hà Nội, 8/5/1960). Ảnh: TTXVN
    Quốc hội khoá II đã đóng góp quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và khôi phục kinh tế ở miền Bắc, đẩy mạnh cuộc đấu tranh giải phóng ở miền Nam; đã thực thi những chính sách phù hợp về dân chủ, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong những điều kiện cực kỳ khó khăn. Trong ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội khóa II tại tiểu khu Trúc Bạch, khu phố Ba Đình (Hà Nội, 8/5/1960). Ảnh: TTXVN
  • Bốn năm hoạt động của Quốc hội khóa II (1960-1964) là một chặng đường lịch sử phát triển mới của đất nước nhằm đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà. Trong ảnh: Công nhân lái máy kéo Khu gang thép Thái Nguyên trao đổi, thảo luận bản danh sách các ứng cử viên quốc hội khóa II (4/1960). Ảnh: Hiệp Đồng - TTXVN
    Bốn năm hoạt động của Quốc hội khóa II (1960-1964) là một chặng đường lịch sử phát triển mới của đất nước nhằm đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà. Trong ảnh: Công nhân lái máy kéo Khu gang thép Thái Nguyên trao đổi, thảo luận bản danh sách các ứng cử viên quốc hội khóa II (4/1960). Ảnh: Hiệp Đồng - TTXVN
  • Đồng bào dân tộc Mán xem tranh cổ động bầu cử Quốc hội khóa II (1960). Ảnh: Vũ Tín - TTXVN
    Đồng bào dân tộc Mán xem tranh cổ động bầu cử Quốc hội khóa II (1960). Ảnh: Vũ Tín - TTXVN
  • Quốc hội khoá II đã đóng góp quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và khôi phục kinh tế ở miền Bắc, đẩy mạnh cuộc đấu tranh giải phóng ở miền Nam; đã thực thi những chính sách phù hợp về dân chủ, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong những điều kiện cực kỳ khó khăn; góp phần bảo đảm hiệu lực và hiệu quả của chính quyền Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng đất nước ở miền Nam và đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Trong ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh chúc mừng đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu giữ chức Phó Chủ tịch nước, tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa II (7/1960). Ảnh: Tư liệu TTXVN
    Quốc hội khoá II đã đóng góp quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và khôi phục kinh tế ở miền Bắc, đẩy mạnh cuộc đấu tranh giải phóng ở miền Nam; đã thực thi những chính sách phù hợp về dân chủ, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong những điều kiện cực kỳ khó khăn; góp phần bảo đảm hiệu lực và hiệu quả của chính quyền Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng đất nước ở miền Nam và đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Trong ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh chúc mừng đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu giữ chức Phó Chủ tịch nước, tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa II (7/1960). Ảnh: Tư liệu TTXVN
Quốc hội Việt Nam trong thời kỳ 1960-1980 hoạt động trong điều kiện miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm hậu phương lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sự lãnh đạo của Quốc hội cùng các cơ quan khác đã góp phần quan trọng đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đi đến thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và kể từ khóa VI (1976-1981), Quốc hội trở thành Quốc hội chung của cả nước Việt Nam thống nhất. Ảnh: TTXVN

Ảnh Ảnh chuyên đề

Tin mới

TTXVN