Ấn Độ hạn chế nhập khẩu hương nhang: Cần hành động ứng phó thích hợp

Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập cho rằng có nhiều dấu hiệu cho thấy biện pháp cấp phép nhập khẩu hương nhang của Ấn Độ vi phạm các nghĩa vụ của nước này trong các thỏa thuận liên quan.
Ấn Độ hạn chế nhập khẩu hương nhang: Cần hành động ứng phó thích hợp ảnh 1Bộ Công Thương Ấn Độ đã ra thông báo số 15 thay đổi chế độ nhập khẩu đối với các sản phẩm hương nhang từ nhập khẩu thông thường sang nhập khẩu hạn chế. (Nguồn: Trung tâm WTO và hội nhập)

Chiều 16/9 tại Hà Nội, Trung tâm WTO và hội nhập (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam) tổ chức cuộc họp giữa doanh nghiệp và các cơ quan Nhà nước liên quan về giải pháp ứng phó trước quy định hạn chế nhập khẩu hương nhang của Ấn Độ, qua đó nhận diện đầy đủ các nguy cơ và thảo luận những hành động thích hợp để giải quyết rào cản thương mại nghiêm trọng này.

Ông Trần Thanh Hải, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết ngày 31/8 vừa qua, Bộ Công Thương Ấn Độ đã ra thông báo số 15 thay đổi chế độ nhập khẩu đối với các sản phẩm hương nhang từ nhập khẩu thông thường sang nhập khẩu hạn chế.

Việc nhập khẩu phải xin phép và được một ủy ban liên bộ xem xét cấp phép theo từng lô hàng. Thông báo này có hiệu lực ngay từ ngày ký, không kèm theo quy định nào về các tiêu chí, điều kiện cấp phép.

Do Ấn Độ là thị trường không thể thay thế của các sản phẩm hương nhang liên quan (không nơi nào khác trên thế giới tiêu thụ loại sản phẩm này), thông báo này của phía Ấn Độ ngay lập tức làm đình trệ toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh ngành hương nhang xuất khẩu đi Ấn Độ của Việt Nam (với hơn 100 doanh nghiệp; khoảng 2,5 vạn lao động nông thôn cung cấp nguyên liệu tăm tre, keo, mùn cưa, bột than củi... hoặc trực tiếp sản xuất, gia công loại hương nhang này).

Từ góc độ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và các cam kết quốc tế với phía Ấn Độ, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập cho rằng có nhiều dấu hiệu cho thấy biện pháp cấp phép nhập khẩu này của Ấn Độ vi phạm các nghĩa vụ của nước này trong các thỏa thuận liên quan.

Ngành hương nhang Việt Nam hiện có khoảng 100 doanh nghiệp. Đằng sau họ là rất nhiều lao động, đặc biệt là những lao động phổ thông, yếu thế như người cao tuổi, người khuyết tật... sống tại khu vực nông thôn. Do đây là ngành sản xuất dễ, thu nhập thường không cao. Các doanh nghiệp, công ty thường vẫn để cho các hộ gia đình ở nông thôn gia công. Do đó, hỗ trợ ngành hương nhang không chỉ là việc cần làm để "cứu" lấy các doanh nghiệp mà sâu xa hơn là còn vì cộng đồng người lao động. Họ chính là những đối tượng bị ảnh hưởng lâu dài, những nhóm chuyên làm gia công hương nhang cho doanh nghiệp, bà Trang nhấn mạnh.

Chủ tịch Công ty Trường Giang, ông Võ Xuân Hợi, cho biết đơn vị đã xuất khẩu hương nhang sang Ấn Độ được hơn 20 năm qua, việc kinh doanh đều rất hữu hảo. Sản phẩm hương xuất khẩu sang Ấn Độ rất khác với hương truyền thống vì phôi hương được sản xuất từ tăm tre. Tại xã Ứng Hòa hiện có hàng nghìn hộ đang hoạt động trong ngành nghề này, đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách và tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động.

Theo ông Võ Xuân Hợi, vì là mặt hàng đặc thù nên Chính phủ cần yêu cầu phía Ấn Độ ngừng triển khai thông báo số 15 nhằm tạo độ trễ tối thiểu để giúp doanh nghiệp bố trí hàng hóa, người lao động sao cho hợp lý.

Việc áp dụng quy định này ngay lập tức là chưa có tiền lệ trên toàn thế giới, trừ các trường hợp với dịch bệnh. Nếu các cơ quan không vào cuộc mạnh mẽ, nguy cơ ngành nghề hương nhang sẽ bị triệt tiêu và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này sẽ bị sụp đổ.

"Chính phủ Ấn Độ cũng nên xem xét lại quy định này. Việc ra những quy định mang tính rào cản như thế này sẽ gây ảnh hưởng lớn tới uy tín của doanh nghiệp Ấn Độ và nguồn cung của doanh nghiệp Việt Nam," ông Hợi nói.

Đại diện Công ty trách nhiệm hữu hạn Ánh Hồng cho hay doanh nghiệp hiện có trên 1.000 lao động, đầu tư 800 chiếc máy với giá thành khoảng 16 triệu đồng/chiếc; chưa kể các loại lò sấy, giàn phơi và thuê 2ha đất của chính quyền địa phương.

Từ năm 1996, doanh nghiệp xuất khẩu hương nhang sang Ấn Độ, hoạt động sản xuất khá ổn định. Doanh nghiệp vừa tái đầu tư 30 tỷ đồng vào hệ thống trang thiết bị máy móc, đổi mới công nghệ. Với tình huống này, giờ doanh nghiệp không biết phải xử trí ra sao vì lượng hàng trong kho hiện còn hơn 20 tỷ đồng.

[Tích cực hỗ trợ xuất khẩu hương nhang vào thị trường Ấn Độ]

Công nhân của công ty có 30% là những người khuyết tật và từ độ tuổi 40 đến 60 tuổi. Tài chính của doanh nghiệp chủ yếu dựa vào nguồn vay vốn ngân hàng. Trước đây, nghề làm hương nhang đã giúp cho 1.000 công nhân có việc làm bền vững. Doanh nghiệp mong Chính phủ hỗ trợ để vượt qua khó khăn hiện nay.

Trước những lo lắng, hoang mang của doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Thu Trang cho hay chính các nhà nhập khẩu Ấn Độ lại là người có phản ứng đầu tiên với quy định này của Chính phủ nước họ. Thực tế, Ấn Độ đã "nhăm nhe" việc bảo hộ ngành sản xuất hương nhang trong nước từ lâu nay.

Theo bà Trang, pháp luật của Ấn Độ không có bất cứ văn bản nào đề cập tới sản phẩm hương nhang, trong các quy định của WTO cũng vậy. Do đó, Ấn Độ phải tuân thủ những quy định bắt buộc của WTO, nếu áp dụng các biện pháp quy định nhập khẩu thì phải sau 21 ngày sau khi ban hành, quy định mới có thể có hiệu lực.

Qua thực tiễn nhiều năm hợp tác, tìm hiểu thị trường Ấn Độ, bà Vũ Thị Hường, Công trách nhiệm hữu hạn Hà Triều (tỉnh Bình Dương) cho biết không chỉ doanh nghiệp Việt Nam mà chính các doanh nghiệp Ấn Độ cũng bàng hoàng khi quy định này được ban hành vì hiện đang là mùa cao điểm chuẩn bị cho lễ hội lớn tháng 10 của Ấn Độ.

Việc hạn chế nhập khẩu sản phẩm và các nguyên vật liệu sản xuất hương nhang từ Việt Nam có thể sẽ kéo theo hàng loạt công nhân Ấn Độ phải nghỉ việc vì sẽ không có hàng để đóng gói. Cùng với đó, hệ thống phân phối, các siêu thị bán hàng, thuế, doanh thu thương mại của Ấn Độ... cũng bị ảnh hưởng. Chưa kể, các doanh nghiệp Ấn Độ sẽ còn bị các đối tác phạt do không đáp ứng đủ nhu cầu hàng hóa.

Ông Trần Thanh Hải, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết kim ngạch xuất khẩu hương nhang đạt mức 76 triệu USD trong năm 2018 đã khẳng định đóng góp quan trọng và nhiều ý nghĩa của ngành này đối với sự phát triển kinh tế.

Quan trọng hơn, đây là lĩnh vực giải quyết việc làm cho đông đảo người dân lao động ở nông thôn và còn là ngành sản xuất tận dụng các nguyên vật liệu là phế phẩm của các ngành khác, góp phần giảm thiểu và hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường nông thôn.

Ông Hải cho biết thêm việc đưa ra hàng rào hạn chế nhập khẩu với một số ngành, mặt hàng không phải là chuyện mới. Nhưng nghiệt ngã nhất là quy định phải được áp dụng ngay lập tức mà không hề có độ trễ để doanh nghiệp thích ứng hay có giải pháp chuyển đổi. Ấn Độ cũng không đưa ra lý do xác đáng giải thích cho việc này. Do đó, đại diện cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam cũng thực sự bất bình và hoang mang như doanh nghiệp.

Theo ông Hải, trong bối cảnh hiện nay, các doanh nghiệp cần phải biết tập hợp và kết nối với nhau; thành lập hiệp hội gồm các doanh nghiệp, hộ kinh doanh và người lao động trong lĩnh vực này để chia sẻ thông tin, tạo tiếng nói chung nâng tầm hoạt động của hiệp hội trở nên chuyên nghiệp hơn.

Qua vụ này, ông Hải cho rằng các doanh nghiệp cũng cần "thức tỉnh" nhiều điều và phải biết lựa cách sống trong môi trường thương mại quốc tế như thế này. Doanh nghiệp cần chuẩn bị tâm thế để đối diện cũng như phương án dự phòng, đối phó với biện pháp chống bán phá giá...

Ông Hải bày tỏ mong muốn các doanh nghiệp cần tự nâng cao năng lực cạnh tranh, sản xuất chuyên nghiệp hơn, đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hoá thị trường.

Theo ông Hải, Bộ Công Thương sẽ có các biện pháp quyết liệt hơn như phối hợp với Bộ Ngoại giao để đưa lên cấp cao hơn nữa, đồng thời tiếp tục đề nghị với Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ, thương vụ Việt Nam bám sát, đôn đốc phía Ấn Độ.

Ông Hải cũng nhận định cần tận dụng những đối tác liên quan có chung lợi ích để cùng nhau lên tiếng. Trong trường hợp này, đồng minh lớn chính là các nhà nhập khẩu Ấn Độ vì họ cũng đang như "ngồi trên đống lửa," do đó, cần lôi kéo họ vào cuộc, liên kết chặt chẽ với các đối tác để lên tiếng phản đối và đòi hỏi những quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục